Home > Đồ Thờ > Bản văn bà chúa cà phê văn khấn/bài cúng bói then

Bản văn bà chúa cà phê văn khấn/bài cúng bói then

Bản văn bà chúa cà phê văn khấn/bài cúng bói then

Bản văn bà chúa cà phê văn khấn/bài cúng bói then, Bà Chúa Then (bà Tổ nghề bói Then) vị thánh tổ của các dân tộc Choang, Nùng, Tày và Thái. Then nghĩa là Thiên hát lên để tế Ngọc Hoàng Thượng Đế. Bà hóa thân và phong ba đồ đệ gồm Bà Nhất – tổ then của người Choang và người Nùng, Bà Nhị – tổ then của người Tày, Bà Tam – tổ then của người Thái.

Chúa bà có nhiều ngón nghề như đọc bùa chú, bói toán, chữa bệnh, triệu hồn và làm vô số phép lạ… Chúa Bà Then hiện thân, mặc áo chàm đội khăn xếp, mang theo đàn tính điều binh luyện tướng của Chúa đi làm những công việc do trời giao xuống, giúp đỡ dân chúng bách gia có lời kêu cầu đấu tối.

Tục thờ Chúa Then ở đền bà Chúa Then, xã Hương Sơn ( huyện Lạng Giang ) được giữ gìn qua nhiều dòng họ. Tín ngưỡng thờ Chúa Then ở nhiều nơi như các tỉnh: Bắc Giang; Lạng Sơn; Cao Bằng…

bản văn chúa then bói – bà cà phê

01 Bản văn bà chúa cà phê văn khấn bài cúng bói then
02 Bản văn bà chúa cà phê văn khấn bài cúng bói then
03 Bản văn bà chúa cà phê văn khấn bài cúng bói then

Cũng giống như các bản văn khác, bản văn bà chúa bói Then mang nội dung miêu tả chân dung, sự tích và nói lên sự uy linh của Bà.

Cả 2 bản văn này thường được dùng để hát thờ vào ngày tiệc và cũng được sử dụng để dâng văn khi hầu giá Chúa Then.

Bản văn chúa Then số 1

04 Bản văn bà chúa cà phê văn khấn bài cúng bói then
05 Bản văn bà chúa cà phê văn khấn bài cúng bói the

Nhang thơm tấu trước án tiền

Thỉnh mời tiên chúa bói then ngự đồng

Cảnh lâm tùng rừng xanh ngan ngát

Cửa thượng ngàn bát ngát suối khe

Non thiêng hiu quạnh bốn bề

Chúa tiên giáng thế lập nghề bói then

Áo chàm đen trâm hoa tràng mạng

Đôi kiềng vàng khảm nạm ngọc lam

Lạng Sơn Chúa ngự thạch bàn

Tay cầm tính tẩu hát vang núi rừng

Tu tiên khí dụng công pháp chỉ

Phép nhiệm màu tà quỷ sợ uy

Sơn tinh voi hổ phục quỳ

Man man cầm thú đều thì phục công

Miền sơn động tay đàn miệng hát

Khí âm dương khúc nhạc điệu then

Danh thơm lừng lẫy lưu truyền

Tiếng đồn vang khắp trong miền Lạng Sơn

Thổ mán mường điều thì cung phục

Nhờ ơn bà cây đức vẻ vang

Thành tâm giữ nghiệp ca đàn

Gọi hồn non nước suối ngàn thủa xưa

Linh tiên khí thần cơ ứng khẩu

Phép nhập hồn tính tẩu ai hay

Có thì có tự mảy may

Không thì cả thế gian này cũng không

Có phen dạo sơn cùng bích thủy

Ai có lòng tùy hỉ hữu duyên

Có phen dạo cảnh non tiên

Hai nàng thị nữ khăn miên theo hầu

Khăn vấn đầu cổ đeo vòng bạc

Lược trâm cài má hạc tóc mây

Hây hây vành nguyệt vơi đầy

Dáng thanh đáng lịch vẻ đầy khuôn trăng

Dáng tiên chúa ả Hằng thua sắc

Bước khoan thai nhẹ gót lên non

Dù cho nước chảy đá mòn

Thương đồng chẳng quản dù còn bao xa

Chúa về đồng muôn nhà kính phục

Nét phong tư vẻ thực tài hoa

Chúa tiên linh ứng hay là

Khúc đàn non nước cầm ca chiêu hồn

Cân đàn then âm dương thấu tỏ

Nhạc vang lừng đâu đó mọi nơi

Thành tâm khấn bái luyện mời

Đan thành nhất dạ làm tôi chúa bà

Làm tôi chúa đồng gia hưng thịnh

Để cho đời nức tiếng thơm danh

Ai ơi hữu tử hữu sinh

Một niềm tưởng vọng tâm linh hữu thành

Tiết ngày lành dâng văn bái thỉnh

Nguyện phúc lai hưng thịnh đề đa

Thỉnh tiên chúa giáng điện tòa

Khuông phù đệ tử vinh hoa thọ trường

Bản văn chúa Then số 2

Thỉnh mời tiên chúa bói then

Nguyên xưa giá ngự một tòa sơn trang

Cảnh lâm tùng rừng xanh ngan ngát

Cửa thượng ngàn tụ khí trung linh

Có phen biến tướng hiện hình

Chúa bà giáng thế lập nghề hát then

Chúa mặc áo đen chàm vạt ngắn

Kiềng bạc đem khảm nạm ngọc lam

Lạng Sơn chúa ngự thạch bàn

Tam cầm đàn Tính hát vang núi rừng

Trên rừng cấm ngày ngày tu luyện

Có phép tiên tà quỷ sợ uy

Linh xà hổ phục tâu quỳ

Muôn loài muông thú đều thì phục công

Miền sơn động chúa ngồi đàn hát

Đàn âm dương gọi hồn thế nhân

Một đời làm phúc cứu dân

Bao nhiêu nghiệt chướng xoay vần hóa không

Thổ mán mường đồng thì phục đức

Người tày nùng chúa thì độ cho

Chúa truyền đệ tử chớ lo

Hành nghề tạo phúc muôn đời nhớ ơn

Thường dạo cạnh sơn cùng bích thủy

Chúa băng rừng thăm thú động tiên

Sướng ca một cảnh thiên nhiên

Hai nàng thị nữ khăn miên theo hầu

Vấn khăn chàm tay đeo vòng bạc

Rẽ đường ngôi mườn mượt tóc mây

Hây hây vành nguyệt vơi đầy

Đáng thanh đáng lịch vẻ đầy khuôn trăng

Dáng tiên chúa cô hằng yểu điệu

Bước khoan thai nhẹ gót lên non

Dù cho nước chảy đá mòn

Thương đồng chẳng quản dù còn bao xa

Chúa về đồng muôn nhà kính phục

Nét hây hây mắt tựa sao xa

Chúa tiên linh ứng hay là

Gảy đàn non nước khúc ca chiêu hồn

Cân đàn then âm dương thấu tỏ

Lai giáng về ngọn cỏ chân mây

Hôm nay tụ họp về đây

Về nghe câu hát làm tôi chúa bà

Làm tôi chúa đồng gia hưng thịnh

Để cho đời nức tiếng thơm danh

Rồi mai chọn lấy ngày lành

Đàn tràng thiết lập cung nghinh chúa bà

Cách sắm mâm lễ xin lộc tại Đền bà Chúa Then:

Việc sắm lễ khi vào đền là hoàn toàn tùy tâm. Lễ vật đền Bà Chúa Then có thể đa dạng khác nhau. Tuy nhiên, cần phải chú ý đến những điều kiêng kỵ sau:

‐ Lễ chay: hương hoa, trà, quả, phẩm oản,… Phần lễ chay dùng để dâng ban Thánh Mẫu.

‐ Lễ mặn: có thể mua đồ chay có hình thịt gà hoặc heo, hoặc dùng đồ mặn như thịt heo, gà,…

‐ Lễ đồ sống: Trong mọi trường hợp tại các ban quan Ngũ hổ, Bạch xà, Thanh xà ở hạ ban Công Đồng Tứ Phủ, không được dâng thức ăn sống (trứng, gạo, muối, thịt)

‐ Cỗ Sơn trang: các món đặc trưng chay Việt Nam. Lưu ý không được dùng cua, ốc, lươn, ớt, chanh,…

‐ Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa,… Ngoài ra có thể chuẩn bị gương, lược,… là những đồ mô phỏng đồ chơi người ta hay làm cho trẻ em. Những lễ vật này nhỏ, được làm cẩn thận và đóng gói trong những chiếc túi đẹp.

‐ Lễ thần Thành Hoàng, Thư Điền: Phải cúng đồ chay mới có phúc, lời cầu nguyện mới được linh ứng.

Văn khấn xin lộc tại Đền bà Chúa Then:

(Nam mô a di Đà phật) 5 lần (mỗi lần 1 lễ, đủ 5 lễ )

Con kính lạy: 9 phương trời 10 phương phật chư phật 10 phương.

Nam mô Đức phật bổn sư thích ca mâu ni như lai.

Nam mô đức tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật!

Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn linh cảm quan thế âm bồ tát

Con kính lạy hội đồng chư phật, chư pháp, chư tăng. Nam mô phật pháp tăng thiên địa, tam giới thiên chúa tứ phủ vạn linh đình thần tam phủ, (thiên phủ, địa phủ , thoải phủ) con xin tấu thỉnh Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát.

ĐẠI ĐỨC VUA CHA NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ, HỘI ĐỒNG VUA CHA.

Con xin tấu thỉnh ĐỨC PHẬT MẪU HOÀNG THIÊN, HỘI ĐỒNG THÁNH MẪU.

Con kính lạy: Ngũ Vị Vua Ba

Con kính lạy: Lục Bộ Công Đồng Trần Triều.

TIÊN CHÚA BÀ THEN.

Con kính lạy:

– THIÊN CÔNG CHÚA CÁT

– TƯỚNG THIÊN BỒNG THIÊN DU

‐ TƯỚNG LÔI CÔNG HỎA CÔNG

‐ TƯỚNG VẠN ÁC

– TƯỚNG HÁC

– TƯỚNG CAI BẢN

‐ TƯỚNG SƯU NGHIÊM

‐ TƯỚNG NAM HẢI

– TƯỚNG CÁ

– NỮ TƯỚNG NÀNG HAN

– CẬU BÉ BẢN ĐẾN

– NHỊ VỊ THỊ NỮ CÔNG ĐỒNG CHÚA THEN

– CON XIN KÍNH THỈNH CÁC VỊ THIÊN BINH THIÊN TƯỚNG MƯỜNG TRỜI xuân thiên ĐINH DẬU NIÊN ……….. NGUYỆT…………. NHẬT………THƠI (THEN NÀNG hoặc THEN CẬU CON). Họ tên………………. (…… phẩm ………… ) mệnh sinh ……. niên, hành canh………… TUỔI, ( phu quân hoặc hiền thê ) họ tên mệnh sinh …… niên, hành canh ……. tuế. ( Nam tử hoặc nữ tử ) họ tên – mệnh sinh …… niên , hành canh ….. tuế. Đồng gia môn quyến đẳng tại VIỆT NAM QUỐC……… ( THÀNH HOẶC TỈNH ) …… QUẬN……….. PHƯỜNG …….. LỘ ……. SỐ. Xin thành tâm tiền lễ nguyện cầu quốc thái dân an xây dựng đạo mẫu đạo then cựu ngôi trường tồn ( cầu gì tuỳ ý ) tấu thay lạy đỡ cho tín chủ nào trước khi làm Việc cứu nhân độ thế. Tấu tên tuổi của tín chủ, địa chỉ rõ ràng trước khi thừa hành pháp sự DẠ TẤU CÚI XIN BÁI THỈNH.

A Di Đà Phật !

A Di Đà Phật !

A Di Đà Phật !

Bản văn Chúa Bà Cà Phê

Bản số 1

Ai lên tới chín tư châu thổ

Ngắm cảnh rừng bà chúa cà phê.

Một vùng phong cảnh sơn khê

Hồn thiêng sông núi danh tài còn ghi.

Trong tích cũ Lê triều thái tổ

Một thôn nghèo mán đỏ trên nương.

Lam chiều khói tỏa màn sương

Chim kêu vượn hót ven đường hoa chen.

Ngày thiêng sổ chọn một giờ

Trời sai tiên nữ cầm cờ giáng sinh.

Đêm thanh giờ tý hiện ra điện tiền

Khắp một vùng yên lặng màn đêm.

Sao sa sáng tỏ ở bên thềm

Chợt nghe giáng hạ tiên nàng thánh linh.

Dáng phong tư hoa kỳ đua thắm

Luyện phép tiên thái thượng lão quân.

Tử vi xem tướng như thần

Bói trong gia sự mười phân vẹn mười.

Đoán thần tướng thương dân chính đạo

Giải hạn tai chỉ bảo căn ro

Giận loài tàn bạo bất lương

Khuyên quay đầu lại tìm đường tu tâm.

Mang tài cứu nước cứu dân

Chúa bà sáng tỏ trần phàm còn duyên.

Loài bất lương thượng thiên an bài

Loài bất lương thượng thiên an bài.

Giờ dần chúa ở thiên thai trở về

Khắp hang động sơn khê chúa dạo.

Đức vua phong nữ đạo thần linh

Du thuyền yên thế cứu dân.

Lập đền hương khói xa gần nhớ ơn

Tiên nhớ cảnh thủy sơn bắc địa.

Giáng trần phàm cao lùng cà phê

Núi non trăng nước hương khê

Chim kêu vượn hót hạc bày dâng hoa.

Môi son má phấn da ngà

Thơm thơm tóc phượng rà rà lưng ong.

Chúa bà thơm thơm tóc phượng rà rà

Áo chàm khăn thắm đai hoa kiềng vàng.

Khăn vắt ngang lưng đeo xà tích

Tai hoãn vàng vòng ngọc kim cương.

Ấn phù đạo pháp cương thường

Ngự đồng phán bói chỉ đường trần gian.

Có phen chơi cảnh bích động thanh nhàn

Ngự lầu hồng phủ tía thênh thang.

Suối trong nước bạc rừng vàng

Núi rừng trùng trùng điệp điệp thang mây.

Ngắm xem phong cảnh đền đây

Thác reo uốn khúc thông cây rườm rà

Trăng soi bóng liễu la đà.

Rừng cấm chúa bà dạo bàn cờ ngự vui

Chúa bà cà phê hách danh trần phàm.

Oai danh thần pháp chúa bà trừ gian

Đêm cùng ngày chúa soi xét nhân gian.

Nghe chúa hạ lệnh giúp dân trừ tà

Danh thơm còn mãi vang xa.

Tiếng lòng thổn thức chúa bà thương dân

Công người như nước như non.

Trọn đời giữ tấm lòng son vì đời

Ai hay lẽ sao trời vật đổi.

Lánh bụi trần về cõi hư không

Đồi cao còn dấu tiên rồng.

Ban tiên đủng đỉnh gót hồng múa ca

Ngũ âm tay đàn tang tích tình tang.

Tay đàn tang tích tình tang

Tiếng tơ tiếng trúc dịu dàng bẻ bai

Tiếng thổ tiếng mường khoan thai điểm đót.

Cảnh lâm thiền vượn hót chim kêu

Mười hai cô thổ mán theo hầu.

Muôn loài khắp chốn đâu đâu vọng cầu

Ba mươi sáu cửa động quy đầu làm tôi.

Ánh đuốc kia sáng tỏ ngân hà

Đuốc soi sáng khắp gần xa.

Soi cho đệ tử lộc tài bình an

Đệ tử con khấu đầu vọng bái.

Xin chúa bà giáng phúc lưu ân

Độ cho đệ tử thiên xuân thọ trường.

Bản văn bà chúa cà phê số 2

Cửa thánh điện hương bay trầm sạ

Tòa tiên cung thánh giá thung dung.

Châu phê đôi chữ phượng long

Chúa Tiên chính vị người nùng Lạng Sơn.

Trước điện đường nhang dâng thành kính

Tâm chí thành phụng thỉnh chúa tiên.

Quang minh nổi dấu nam thiên

Giáng sinh thần nữ đề tên bảng vàng.

Đất cao sơn bản làng Hữu Lũng

Phố Vị ngàn thắng động tiên sơn.

Nổi danh chính vị tiên nương

Tinh thông chiêm thuật tầm phương độ người.

Phép linh ứng đổi dời mệnh số

Đức tu tâm gia hộ quán thương.

Quẻ ban phán bảo tỏ tường

Dân an quốc thái muôn phương thuận thời.

Đồi Cà phê chính ngôi chúa ngự

Cửa linh từ rực rỡ đăng nhang.

Trăm hoa đua nở trên ngàn

Non thiêng nước độc quan san dặm trường.

Công ơn đức lưu phương bách thế

Phúc truyền lai lan quế xum đình.

Chữ đề vạn cổ anh linh

Bảo dân hộ quốc sử xanh dõi truyền.

Công ơn đức lập đền phụng sự

Thỉnh Chúa Bà thượng ngự giáng lâm

Chữ rằng Thánh giáng lưu ân​.

Văn hóa thờ Bà Chúa Then trong tín ngưỡng người Việt Nam:

Tục thờ Bà Chúa Then là loại hình văn hóa nghệ thuật tâm linh quần chúng, luôn có sức sống mãnh liệt trong đời sống cộng đồng của các dân tộc Nùng, Tày, Thái. Tín ngưỡng thờ cúng Chúa Then là một loại hình văn hóa phi vật thể vừa năng động, vừa rất nhân văn, vừa mang tính cộng hưởng của văn hóa dân gian, tín ngưỡng gắn với bản sắc của từng dân tộc Tày, Nùng và Thái là các dân tộc thiểu số. Đối với đồng bào ba dân tộc, tục cúng bái Bà Chúa Then lúc bấy giờ không chỉ để cầu bình an, hạnh phúc mà còn liên quan đến các hoạt động tín ngưỡng trong năm.

Then có nghĩa là “thiên”, người Tày tin rằng Chúa Then là đại diện của thần thánh, là cầu nối tâm linh, những lời thỉnh cầu, nguyện vọng của con người đến tai trời đất.

Vì vậy, các dịp lễ người Nùng, Tày, Thái cầu tài, cầu an, giải hạn, cúng tổ tiên hay mừng nhà mới, mừng thọ ông bà, các cụ cao niên, v.v.. đều không thể vắng mặt thầy Then. Trong trường hợp này, thờ cúng Then là một hình thức tâm linh, tín ngưỡng dân gian, trong đó thờ cúng còn hấp dẫn bởi nghệ thuật, không gian và thời gian của người nghệ nhân. Diễn xướng then là loại hoạt động kết hợp nhiều hình thức diễn xướng. Đó là một hình thức bao gồm nhiều yếu tố khác nhau như tín ngưỡng xã hội và văn hóa nghệ thuật, đúc đồng, múa, mạ vàng, lễ cúng.

Xuất phát từ quan niệm bệnh tật

là do hồn lìa khỏi xác một thời gian hoặc hay do “phi” nhập vào xác đánh đuổi xúc phạm đến hồn. Điều này tất yếu dẫn đến quan niệm muốn hết bệnh thì phải làm cách nào đó để đưa hồn trở lại xác hoặc đuổi vong hồn ra khỏi xác. Nhưng người ta không thể tự “thấy” trời để xin mà phải có một người “đặc biệt” có thể kết nối thế giới con người với thế giới siêu nhiên, là “then”, “giàng” hoặc “pựt”. Nhờ những trải nghiệm, kinh nghiệm của mình, họ biết cách ứng xử, nhận ra những bất lợi và thuận lợi của thiên nhiên, thời tiết đối với lao động sản xuất của con người.

Theo nghĩa trên thì “then”, “giàng”, “pựt” của người Tày, Nùng, Thái giống như thầy cúng hay thầy mo của người Mường, cô đồng bà cốt của người Kinh. Đây là những người mà mọi người tin rằng có một nhiệm vụ thiêng liêng là liên kết giữa trời và đất. Để tăng thêm uy thế và “khả năng” siêu phàm của mình, khi đó các “then” còn cấp sắc được gọi là lẩu then. Số tua ở sau mũ là “chứng chỉ” chứng thực khả năng giao tiếp với thần linh của mỗi then. Nếu càng có nhiều dải chứng tỏ khả năng tuyệt vời của then, do đó càng có nhiều dải mũ thì các con hương càng tôn trọng và coi trọng.

Thiên đàng một hình ảnh lý tưởng của nhân gian,

trở nên cụ thể qua những thầy then có khả năng “du hành từ cõi này sang cõi khác”, hay nói cách khác, nhân bản hóa thiên đàng để mang thiên đàng đến gần nhân gian hơn. Ngoài ra, các thầy then thời đó đã cụ thể hóa khái niệm linh hồn trong tín ngưỡng của các dân tộc Tày, Nùng, Thái bản địa. Theo truyền thuyết dân gian, quả trứng và con chim én trở thành công cụ và biểu tượng của nghề then.

Tất cả các vị thần theo quan niệm dân gian khi vào trong then thì nhập vai như những nhân vật có thật. Ngoại trừ tổ tiên là những nhân vật phàm tục có thật, tất cả các vị thần khác sau đó đều có hình dáng của riêng mình. Nhiều vị xuất hiện qua phương thức nhập đồng bằng trong các đám lấu cấp sắc của “pựt” nhử Thổ Công, Táo Công. Khi nhập đồng, những người thầy thời ấy trở thành những thầy then trở thành những nhân vật “trời giáng” xuống trần gian để dạy dỗ, dạy bảo con cháu.

Chúa Then khác với văn hóa chầu Đạo Mẫu. Tiên chúa bói Then có ngày sinh hóa, Đền thờ Nam Thiên Tứ Thánh Thủ Thượng – Đền Đồng Ông Bùi Quang Lưu ở xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang được coi là trốn tổ của chúa Then theo đạo mẫu Việt Nam. Bấy giờ trong Đạo Mẫu Việt Nam, ông là người trẻ nhất thờ Chúa Then rất hoành tráng và trang trọng thuộc bậc nhất thờ Bà Chúa Then. Hậu duệ còn đến tận ngày nay là ông Vương Văn Bình và bà Trịnh Thị Núi.

Lịch sử Đền Bà Chúa Then:

Ngày 21 tháng giêng năm 1735, Lê Trung Hưng Triều tôn cấp lập thờ Thánh Bà Tổ Then (Chúa Then) phía trước, sau thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, tả thờ Đức Đại Vương Trần Quốc Tuấn, hữu thờ Chúa Sơn trang tại Lạng Sơn Phiên Trấn (dị bản Phụ Trùng Khánh) – châu Văn Lan, bản Nà Lùng.

Hiện nay là thôn Nà Cốc, xã Hoàng Văn Thụ, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn. Trải qua lịch sử, ngôi đền cổ vẫn còn nguyên vị trí cũ và còn lưu giữ được những hiện vật thờ tự cổ như hương án cổ, bộ lục bình, áo chàm cổ, đàn tính, chậu đồng, mâm đồng, bộ sóc nhạc, kiếm trừ tà vải bắc cầu, đồng đài xin âm dương bằng gỗ đều có niên đại hàng thế kỷ.

Ngôi đền được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng ban đầu chỉ là một ngôi đền nhỏ, nằm trong quần thể Tứ phủ (Nghi lễ Tam phủ) và thêm nữa, thờ một vị thần bà Chúa Then của một gia đình Trung Quốc đồng thời là vị thủ nhang ngôi đền.

Người Nùng Tày cho rằng bà là thần, cầu gì được nấy.

Theo thần phả ghi lại, họ Liễu từ Trung Quốc từng sinh sống ở làng này đến lập miếu thờ và phụng sự chúa Then. Có người khi bị bệnh uống thuốc nam không khỏi bèn lên miếu xem bói, mua hương hoa trà về mà khỏi bệnh. Tin đồn lan rộng về ngôi đền thánh. Dân làng tin và khi có bệnh tật thì đi xem bói và làm lễ. Trong suốt những năm lịch sử hiện tại, ngôi đền vẫn tiếp tục đứng ở vị trí cũ như trước đây. Hiện nay, trong chùa còn lưu giữ được một chiếc lư cổ có khắc chữ “Thánh Cung vạn tuế”, một thanh gươm, một chiếc áo chàm của người Nùng và một đàn sóc, tất cả đều có giá trị trên 100 năm.

Năm 2016, trùng tu đền thờ ở các cung giữa tam phủ thờ Thánh Mẫu và bà chúa thủ đền Bà Chúa Then.